Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012

Flash cho mầm non : Mèo đi câu cá.



Anh em mèo trắng
Vác giỏ đi câu
Em ngồi bờ ao
Anh ra sông cái

Hiu hiu gió thổi
Buồn ngủ quá chừng
Mèo anh ngả lưng
Làm luôn một giấc
Thầm nghiêm thầm chắc
Đã có em rồi.


                       



Mèo em đang ngồi
Thấy bầy thỏ bạn
Đùa chơi múa lượn
Vui quá là vui

Mèo nghĩ: ồ thôi
Anh câu cũng đủ
Nghĩ rồi hớn hở
Nhập bọn vui chơi



Lúc ông mặt trời
Xuống núi đi ngủ
Đôi mèo hối hả
Quay về lều tranh
Giỏ em giỏ anh
Không con cá nhỏ
Cả hai nhăn nhó
Cùng khóc meo meo...

v>

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Tranh dùng cho mầm non 5.

THẰNG  BỜM



Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò, chín trâu



Bờm rằng : Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè


Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim


Bờm rằng : Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi


Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.


ONG  VÀ  BƯỚM
thơ : Nhược Thủy



Con bướm trắng - Lượn cành hồng
Gặp con ong - Đang bay vội
Bướm liền gọi - Rủ đi chơi


Ong trả lời :  tôi còn bận
Mẹ tôi dặn - Việc chưa xong
Đi rong chơi - Mẹ không thích.

Truyện kể :    CÁ RÔ RON KHÔNG VÂNG LỜI MẸ
Văn Hồng.


Trời mưa. Rô mẹ dặn rô con...


Rô rủ cá cờ vượt dòng nước...


Rô nhìn thấy một cô bướm có đôi cánh màu tím biếc...


Rô ron bị mắc cạn...


Rô ron hối hận dúi đầu vào lòng mẹ.


BÉ  ƠI
thơ : Phong Thu


Bé này, bé ơi
Đừng chơi đất cát


Hãy vào bóng mát
khi trời nắng to


Sau lúc ăn no
Đừng cho chân chạy


Mỗi sớm ngủ dậy
Rửa mặt đánh răng


Sắp đến bữa ăn
Rửa tay đã nhé !
Bé ơi ! bé này...






Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

TÌM ĐẸP- Đoàn Thêm-Một cuốn sách quí về Mỹ học.


             TÌM  ĐẸP  -   Đoàn Thêm.
Đoàn Thêm là nhà luật học, nhà thơ, sinh ngày 5-11-1915 tại Hà Nội, quê làng Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, nay là huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.

Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, con trai nhà giáo dục, cử nhân Đoàn Triển (1854-1919). Thuở nhỏ học tại trường Bưởi (Chu Văn An), đậu bằng Tú tài Pháp Việt, rồi vào trường Đại học Đông Dương, tốt nghiệp cử nhân luật trước năm 1945.
Trong kháng chiến chống Pháp ông tản cư ra vùng tự do, khoảng năm 1951 ông hồi cư về Hà Nội, sau năm 1954 vào làm việc tại Sài Gòn, từng làm việc hành chánh tại văn phòng Phủ tổng thống thời Ngô Đình Diệm (1954-1963). Sau đảo chính 1-11-1963, ông bỏ đời sống công chức, viết văn làm báo. Những năm 60 có lúc ông được trao giải thưởng “văn chương toàn quốc” (Sài Gòn), ông đã từ chối vì cho mình là một công chức cao cấp của chính quyền thì không nên nhận giải.
Sau năm 1983 ông được nhà nước Việt Nam cho phép định cư cùng con cháu tại Canada, đến ngày 8-8-2005 ông qua đời, thọ 90 tuổi.

Tác phẩm


-Hai mươi năm qua: (1945-1964) (1966)
-Việc từng ngày 1965, 1966, 1967, 1968, 1969, (1969)
-Những ngày chưa quên (1967)
-Những ngày muốn quên (1992)
-Lược khảo về hiến pháp các nước Á đông
-Lược khảo về chính đảng
-Về văn chương, nghệ thuật:
-Nhạc dế, (thơ, 1960)
-Vườn mây (nt, 1961)
-Hòa âm (nt, 1961)
-Tìm đẹp (nghị luận hội họa, 1964)
-Tìm hiểu hội họa (1965)
-Quan niệm sáng tác thơ (theo lời thi nhân và học giả Tây phương, 1962)
-Từ Thức (thơ)
-Taj Mahal (thơ)


                                                                  LỜI  NÓI  ĐẦU




Tuy mới phát triển từ cuối thế kỷ trước. Mỹ học ( Esthétique) hiện nay được phổ biến rộng rãi ở các nước tiên tiến, theo cùng một đà mau lẹ như các môn nghiên cứu và phê bình nghệ thuật khác. 
 Bắc nhịp cầu giữa các địa hạt nghệ thuật và triết lý, Mỹ học mở đầu những phạm vi bao la và tân kỳ cho trí tuệ và cảm quan, hay đúng hơn, đã lan tràn ra mọi trạng thái cuộc sống, để nhận hoặc tìm thêm vẽ đẹp.
Môn học này đã ảnh hưởng mạnh mẽ ngấm ngầm vào sự tiến hóa của nghệ thuật thuần túy, mỹ nghệ, công nghệ, kỹ nghệ.  Nhưng kết quả quan sát và suy luận của nhà mỹ học, giúp ích nhiều cho các nghệ sĩ tìm đường sáng tác, và đem lại cho các giới thưởng thức những ý niệm quảng bác và linh động để hưởng thụ mọi kỳ thú của sự đẹp giữa nhân quần cùng tạo vật.
Bởi đối tượng và phạm vi của mỹ học rất rộng lớn, soạn giả chỉ dám nêu lên và trình bày một vài vấn đề chính yếu, với ước vọng góp phần nhỏ mọn vào công cuộc quảng bá thường thức căn bản, ở một lãnh vực đáng được chú trọng nhiều hơn.
                                                                                                           Đoàn Thêm.


                                                 TÔ ĐIỂM TRONG MỸ NGHỆ   ( Chương V )


Trong những lúc ngắm đồ đạc, qua trăm ngàn hình thái khác nhau, ở mỗi loại mỗi thời, tôi vẫn thường thấy lơ mơ hình như có điểm chung. Cố tìm, thì dần dần hiện rõ: chính là ở phần tô điểm. Bông hoa được thêu ở bức rèm, chạm ở góc bàn, dệt trên tấm thảm, khắc ở đồ nữ trang...
   Đã có những điểm chung, tất có những cách thức hay thể lệ chung cho các mỹ nghệ. Nếu bao quát được, thì sẽ đở tốn thì giờ dò xét tỉ mỉ mà cũng nắm được dể dàng các đặc tính, vì đồ đạc như rừng, mỗi ngày sản xuất một nhiều, nên cần có ý thức tổng hợp.
   Mỗi ngành chế tạo dĩ nhiên phải theo kỹ thuật riêng, tùy nhiên liệu và dụng cụ cần thiết. Song nếu tô điểm, thì cổ lai vẫn tìm đẹp ở chất, sắc ánh, hình và sự sắp đặt cho cân đối, có nhịp điệu hoặc  ý nghĩa.
   Nhưng các yếu tố và các mục tiêu nói trên, chẵng cũng chung cho cả nghệ thuật hay sao ? Có khác nhiều, vì ở nghệ thuật, mỗi tác phẫm muốn thành công phải có tính cách độc đáo duy nhất và sáng tạo theo một đường lối đặc biệt; còn ở mỹ nghệ, mỗi thứ đồ có thể và cần được chế ra thành rất nhiều đơn vị cùng một kiểu ( hàng vạn ghế Louis XV) và những phương thức kỹ thuật phải tương đối giản dị để dễ áp dụng và phổ biến.

                                                  CÁC YẾU TỐ TÔ ĐIỂM

 Chất liệu : - Vẽ đẹp của mỹ nghệ một phần mượn ở chất liệu thiên nhiên, ở vân gỗ, cẩm thạch, vàng, kim cương...Song chất liệu không những dùng để chế tạo, còn để ghép thêm mà tô điểm cho những đồ đạc thuộc về loại hay ngành khác. Hạt  trai, mặt đá của những nữ trang được đính vào nhiều bức thêu : Khảm xà cừ, bạc , đồng được đem dát, cẩn, nạm khay hộp, bàn, cánh cửa, chuôi kiếm : đá hoa, gạch men, ngà voi đóng cùng với ván lát ( marqueterie); lông chim hay xòe trên mũ quân nhân thời xưa hay tù trưởng thời nay ở nhiều miền sơn cước.
Màu  sắc : Màu sắc là yếu tố quan trọng bậc nhất, có khi độc nhất trong sự tô điểm, nhưng ở mỹ nghệ mang một đặc tính : phải rải rất đều tay, nhẳn, phẵng trên cùng một diện tích ( à plats) gọi là sơn thỉ dễ hiểu hơn. Những vết nguệch ngoạc phất phơ có thể rất đẹp ở họa phẩm, sẽ bị coi là vụng về trên vuông lụa, tờ bìa hay tấm thảm ,đồ gốm.
  Khi con người có nhiều tham vọng phô trương và khắc phục thì hay tìm màu sắc huy hoàng sán lạn cho những hình thể nguy nga hoặc oai vệ : cửa khốn khuyết, giáp trụ, hoành phi, bát bửu...Những đồ đạc của vua chúa các thời các xứ văn minh và cả các bộ lạc.  Trãi qua bao nhiêu triều đại, cái đẹp bị xáo trộn cùng quí giá và sang trọng nên màu sắc như vàng son chỉ để phụng sự một số tầng lớp xã hội.
  Phải đợi đến cận đại, các nhà mỹ nghệ và chuyên viên trang trí mới giải thoát cho màu sắc khỏi những ước lệ lâu đời, mà sử dụng cho đúng với  nhu cầu mỹ thuật , tìm đẹp trong sự hòa hợp với các yếu tố khách quan khác như chất liệu, diện tích, khối lượng, công dụng của đồ đạc.
  Nhưng tránh rực rở lòe loẹt, thì lại hay rơi vào buồn tẻ, lạnh ngắt: đó là tình trạng rất nhiều sản phẫm chế tạo bằng cơ khí, kể cả những máy móc; nâu, đen, xanh, xám không những là áo người lao động. Màu tường, mái các xưởng, các guồng xích, bánh xe, còn là màu xe hơi, tàu thủy, chai hộp, cây viết, bàn ghế và bao nhiêu đồ đạc khác mà kỹ nghệ đã đem lại cho loài người ngót hai thế kỷ nay. Bởi vậy, nhiều nhà xã hội học và mỹ học đã lo thay đổi không khí nặng nề và nhờ màu sắc gây một hoàn cảnh vui tươi hơn, ở đồ vật và những nơi làm việc, trường học, nhà ga, phòng đọc sách, trại lính, công sở. Trong nhiều xí nghiệp, hiện nay có nhiều chuyên viên về màu sắc ( coloriste conseil ). Ở nơi nào trụ sở và dụng cụ có màu sắc đẹp, thì số tai nạn lao động giảm đi, và sức làm việc lại tăng lên nhiều : rút kinh nghiệm ở 200 xí nghiệp lớn nhỏ sau đại chiến II. Có lẽ vì thế, mà hồi gần đây, nhiều bàn ghế và xe xe hơi cũng mang màu sắc rực rở?.
Ánh bóng :- Nhiều thứ đồ cần có hình thái giản dị cho vừa ý đa số người hiện nay. ( Thời xưa, con người hay chế tạo tỉ mỉ, chạm khắc cả những vũ khí, áo giáp, ở phương Đông cũng như phương Tây; nghệ sĩ Gellini bên Ý khắc cả sự tích ngưởi khổng lồ giao chiến ở đầu chuôi dao găm. Vả lại công dụng thiết thực không dung thứ những nét vẽ bay bướm ( như ở báng súng ) hoặc những màu quá vui mắt dễ làm cho đảng trí và có khi gây tai nạn ( xe cộ ). Nên chỉ có thể tìm đẹp bằng cách mài nhẳn và đánh bóng. Đối với những khí cụ không thể bày nhưng để cầm, mó, vịn , đẩy; nghĩa là xúc giác ở đây phải được thỏa mản nhiều hơn thị giác. Ngoài các chất sơn, nhựa láng ( vernis), chất men ( email ) ngày càng được phổ biến, cùng các chất kim khí như kền (nickel) và cờ rôm ( chrome) khám phá từ năm 1797. Sự bôi bóng và mạ sáng khiến cho những đồ vật tầm thường nhất như cái muỗng, viên gạch, chiếc đinh khiến ra sạch, mát, mới, vui; song kỹ xảo này hay bị lạm dụng, nên nhiều đồ mang hào nhoáng của kẻ học làm sang :  chân bàn, tay ghế, xe hơi lộng lẫy với những phụ tùng vành, nẹp, ngáng làm choáng mắt khách qua đường.
Hình trạng :- Kỹ nghệ mỗi xứ và mỗi thời, cũng như nghệ thuật cũng có tính cách riêng hợp thành những kiểu thức đặc biệt. Song xét về chi tiết, thì ở bất cứ ở nơi nào và bao giờ cũng có rất nhiều hình chung, trong sự cố gắng làm tăng vẻ đẹp của đồ đạc.
  Số các hình đó không thể nào đếm cho hết, nhất là hiện nay nhà mỹ nghệ cũng như nghệ sĩ theo đường lối tự do, tùy hứng tùy tài mà tạo tác.
  Nhưng tựu trung các hình tô điểm đại khái có thể phân ra hai loại , căn cứ vào nguồn gốc chính của sự đẹp :
Tạo vật và kỷ hà học.
  Ở loại thứ nhất, các hình thuộc về tinh tú, vũ trụ, thảo mộc, cầm thú, nhân vật, thần tiên hay đồ vật với hai mục đích. Trước hết con người nhận thấy những vẻ đẹp thiên nhiên muốn thu lấy cho mình mà tô điểm thân thể cùng hoàn cảnh : yêu hoa ở cánh đồng, rừng , bụi đem về trồng thành vườn, rồi in hoa lên áo. Ngoài ra nhiều hình có thể hợp với một tín ngưỡng hay một ý thức, nên được vay mượn để thể hiện niềm tin : cán cân thăng bằng tượng trưng cho công lý, chim đại bàng giương cánh để tỏ trí quật cường, tứ linh long lân qui phượng tức các sức mạnh cao quí trong trời đất.
-Tinh tú và vũ trụ : như mặt trăng, mặt trời, ngôi sao, đợt sóng ( ở  cờ, mũ, binh phục, huy chương.)
-Thảo mộc : như mai. lan, cúc, trúc của phương Đông, bông huệ ở áo các dòng họ vua chúa Capet bên Pháp, cành trúc đào ở mũ văn võ phương Tây, lá acanthe ở đầu cột nhà, các thứ hoa lá ở tường, trần ( rinceaux, frises)...
-Cầm thú : Bạch nga, nhạn, yến, chim sẻ, dơi, rắn, ngựa, hươu, hổ báo, dê núi ( bouquetin ở lọ và bàn ghế)
-Nhân vật thần tiên : Thần ái tình  nhỏ như con nít ( amours), thần vệ nữ, các nhân ngư ( sirènes), người thân bò ( centaures), người thân dê máu dê ( satyres), bát tiên quá hải, thần Vishou của Ấn độ.Người thật thì ít lắm, trừ vài bộ phận như sọ hốc hác đặt trên hai xương đùi.
-Đồ vật: Như bát bửu, khí giới, cây bút và thanh kiếm ở bình phong bội tinh, đàn thất huyền ( Lyre ), ống kèn ( trompette), bầu rượu túi thơ...
   Loại thứ hai gồm các hình kỷ hà học, tam giác, bát giác, vuông, bầu dục...hay nói cho gọn hơn, là muôn vàn đường góc diện tích kết hợp theo các chấm ( points) vạch thẳng ( droite) hay vạch cong ( courbe).
Các chấm hoặc hạt nhỏ có thể tụ vào một khoảng nhỏ hay xếp đặt đều hàng như trên mặt con súc sắc, lấm tấm như sao trên vải lụa điểm ánh vàng bạc ( granulé, pailleté).
  Đường thẳng đứng, nằm hay nghiêng, đều cứng cỏi, rành mạch nhưng dể coi hơn nếu đi song song nhiều vạch ( rayures) : khi chắp hình thành, thì mỗi hình đều gợi cảm tưởng khác nhau tùy người ; đối với riêng tôi : Tam giác: sắc cạnh, nhọn, ác - Vuông: đầy đủ nhưng chặt chẻ quá - Lục lăng : đều hòa - Chử nhật : dể ưa hơn cả vì thế đa số các khung tranh, mặt bàn, cánh cửa, danh thiếp đều theo hình đó.
  Đường cong hóa ra hình tròn hay trái xoan có thể uốn mềm như cung ( arcs) lượn quanh nhiều khúc ( serpentine, méandres) cuốn vài vòng ( volutes) xoáy trôn ốc ( spirales). Tròn cong thì mềm, nhẹ, xinh, dễ kết hợp với tâm tình hơn là lý trí, nhưng dùng vụng hoặc nhiều dễ sinh yếu đuối, rườm rà, nên cần được những đường thẳng chế ngự.
  Dù thẳng hay  cong, các đường thường được chắp nối cho liên tiếp ( arrangements continus) bắt ngang hay đón dọc thành những ô hay màn lưới ( réseaux, quatrillages) tỏa ra nhiều chi nhánh ( ramifications) . Tóm lại đi từ đơn giản đến phức tạp để thành mỹ thức:


grecques

Mê cung nhiều lối- labryinthe.


hình ngôi sao-étoiles


bát quái.


kẻ vạch lồi lỏm- cannelure.


vòi cuốn- vrille.

bánh xe quay- roue tourbillon.

đường tết chéo- entrelacs.

xòe đều- rosaces.








các loại cành lá ở điêu khắc và kiến trúc.

30-4



Ảnh st internet

Tôi là một người lái taxi, một nghề rất bình thường trước năm 1975.
Một buổi sáng trời mát dịu,  đang đậu xe đợi khách trên đường Nguyễn Du, chợt có một cô gái  khoảng 25 tuổi, tóc ngắn, mặc áo thun  vàng, quần jean đến hỏi:
-Anh có đi Vũng Tàu không ?
-Có, nhưng hơi mắc đó!
-Là bao nhiêu?
-60 đồng cả đi lẫn về.
-Được, nhưng em có một thỏa thuận thế này. Anh chở em ra Vũng Tàu ,  giao hàng xong thì đưa em về lại Sài Gòn lúc đó em sẽ trả cho anh 70 đồng, bao luôn cơm trưa được chưa ?
Một chút do dự trước cô gái nhưng tôi gật đầu luôn và nói:
-Nếu vậy thì cô ứng trước cho tôi 40 đồng đổ xăng !
Cô gái chợt nở một nụ cười và nắm lấy tay tôi sờ xuống vòng eo , dưới làn vải, tay tôi chạm vào những khối nhỏ hình chữ nhật quấn quanh vòng bụng tựa như một băng đạn.
- Tiền vàng của em ở đây này, anh yên tâm đi khi về em sẽ trả đủ cho anh.
Thế là chúng tôi lên đường, đối với một người lái xe lâu năm như tôi, thì cuốc xe này có giá tốt, nhưng trong lòng vẫn thấy bất an. Dọc đường tôi chỉ hỏi cô gái địa chỉ nơi đến còn cô ta cũng không nói gì nhiều, chỉ nhìn ngắm phong cảnh bên đường.Mãi đến hơn 12 giờ trưa chúng tôi mới đến Vũng tàu.
Khi tôi đưa cô gái đến Bến Đá, xuống xe cô gái dặn tôi :
- Anh vào quán này uống cà phê, khoảng một tiếng nữa giao hàng xong là về.
Nói xong cô gái thoăn thoắt đi vào một hẽm nhỏ phía trong xóm nhà lá. Còn tôi vừa uống cà phê mà lòng lo âu thấp thỏm, mắt cứ nhìn vào cái vào cái ngỏ sâu hun hút ấy.
Hơn một tiếng sau, cô gái ấy trở ra.
-Công việc của em chưa xong nhưng sợ anh chờ lâu nên em trở ra mời anh đi ăn cơm. Anh muốn ăn gì ?
- Ăn gì cho no là được rồi.
-Í, đã xuống Vũng Tàu thì phải ăn cho đáng chứ, anh cứ chở em đi.
Tôi lái xe về phía chợ cũ, nơi có nhiều quán ăn bình dân giá rẻ. Vào quán cô gái liên tục gọi các món ăn : cá bốp nấu chua, tôm thẻ rim, ghẹ chiên bơ và ăn uống một cách ngon lành tự tin.
Còn tôi vừa ăn vừa nghĩ trong ví còn chưa tới 30 đồng thì không biết phải xoay xở sao đây.
Sau khi đưa cô gái trở lại Bến Đá, tôi kêu thêm một ly cà phê  và tiếp tục ngồi chờ đợi.Thời gian trôi qua, hết hoàng hôn rồi bóng đêm trùm xuống mà bóng dáng cô gái vẫn không thấy đâu. Thôi rồi, thế là đắng cay.
Tôi lục tìm trong đầu những địa chỉ người quen, nhưng không nhớ,  đành phải liều thôi.
Chạy xe ra cây xăng ở ngã tư giếng nước.
-Đổ xăng đầy bình
-40 lít là 25 đồng
Đợi cho xe đổ đầy xăng, tôi làm liều nói luôn :
-Em ơi, hôm nay cho anh thế lại căn cước nghe,mai ghé lại trả tiền ?
-Không được đâu anh ơi, em chỉ là người làm công không quyết định được!
Đang phân vân chợt ông chủ bước ra , sau khi nhìn tôi một lúc:
-Muốn thiếu thì phải thế luôn bằng lái xe.
Hú vía, thế là thoát nạn. Tôi chạy liền một mạch về  Sài Gòn. Và chuyện đó tôi cũng dần quên đi coi như là một thói lọc lừa của người đời.
Sau 30-4 khoảng vài tháng, khi mà những biến động ,xáo trộn của xã hội đã dần dần đi vào ổn định. Tôi lại trở về với nghề lái taxi.Một hôm trong lúc chờ khách, đang đọc tờ báo Sài gòn giải phóng, chợt một giọng nói rất quen làm tôi giật bắn cả người:
-Anh Hai còn nhớ em không ?
Tôi nhìn lên, trước mắt tôi là cô gái đó nhưng bây giờ đang khoác bộ đồ giải phóng, vai có nhiều sao, bên cạnh là hai thanh niên, tay băng vải đỏ, tay lăm lăm súng AR-15 còn khuôn mặt thì lạnh tanh.
Tôi độp luôn:
- Mặt cô thì có băm ra trăm nhát tôi cũng nhìn ra !
-Anh nói gì mà độc địa quá, em đến để xin lỗi  anh vì chuyện năm ngoái đó. Bây giờ thì mời anh đi theo em về trụ sở của Ủy ban quân quản, ở phòng thông tin quận.
Tôi chợt lo, không lẽ làm ơn mắc oán :
-Thôi cô ơi, tôi còn bận chở khách, gặp nhau có tiếng nói như vậy là được rồi!
Hình như hiểu được tâm trạng của tôi , cô gái mĩm cười và mời tôi lên chiếc xe jeep đậu gần đó.
-Anh đừng lo, em muốn gặp riêng anh để nói chuyện thôi, xe anh sẽ có người giữ .
Tại trụ sở ủy ban quân quản không khí làm việc rất căng thẳng, lớp thì  vào trình diện học tập, lớp thỉ khiếu nại dân sự, tiếng quát tháo liên tục : Đề nghị chấp hành khẩn trương, đề nghị quán triệt đường lối...Cô gái đưa tôi vào một căn phòng nhỏ phía sau trụ sở.Trên bàn có một cặp vải đựng tài liệu , một chiếc giường nhỏ với mùng mền xếp ngay ngắn, trên vách treo một chiếc nón tai bèo.Sau khi mở bình thủy pha một ấm trà, cô gái rót ra chén mời tôi uống:
- Sở dĩ em muốn mời anh đến đây là để mong anh hiểu cho hoàn cảnh của em lúc đó,  em phải chuyển giao gấp một số tài liệu mật về Vũng Tàu, sau khi ăn cơm trưa  xong, thì em được lệnh là phải vào cứ ngay vì cơ sở của em tại Sài Gòn đã bị lộ.,  ra đi mà lòng em cứ ray rứt mãi, không biết anh có về được Sài gòn không?
-Thôi quên chuyện đó đi, tôi gian nan lắm mới đưa được chiếc xe về Sài Gòn, nhưng cái gì đã qua thì cho qua luôn!
- Anh uống nước rồi đợi em một chút.
Một lát sau, cô gái trở lại với một xấp tiền trên tay.
- Bây giờ em xin trả số tiền còn nợ anh.
Tôi nhận lấy số tiền mà không cần đếm  vì mong ra khỏi chổ này càng sớm càng tốt.
- Em cảm ơn anh nhiều lắm.Nếu không có anh giúp, thì số phận của em không chắc dược như hôm nay, với lại gặp anh đây là lần cuối, em sắp đi xa.
-Bộ cô đi là chết luôn hay sao?
-Không dấu gì anh, em được cấp trên cho đi học tại Liên xô.
- Cô học cái gì ?
Ngập ngừng một chút rồi cô gái trả lời:
-Em đi học ngành tình báo.
Lúc đó trong đầu óc của tôi chợt hiện về gương mặt  quen quen khi thì đẩy xe sinh tố, khi thì bán đồ lưu niệm dọc trên các tuyến đường Nguyễn Du, Hồng thập tự của những ngày trước năm 75. Sau này tôi được biết thêm về cô gái đó : thượng tá Đỗ thị Kim Hằng, hoạt động nội thành.
Những năm về sau, cứ mỗi lần đến ngày 30-4 là tôi chợt nhớ lại câu chuyện cũ,mặc dù không lần nào gặp lại cô gái ấy nữa.





Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012

Sách hay : TÌM ĐẸP 1 - Đoàn Thêm

TÌM ĐẸP- Đoàn Thêm - 2.

CÁC PHƯƠNG THỨC MỸ NGHỆ.

  Để thực hiện một mỹ thức Motif ( chữ Motif theo từ điển Đào Đăng Vỹ là kiểu vẻ, theo từ điển Đào Duy Anh là kiểu trang sức, song như vậy không rõ ràng, vì chính ở các từ điển này chữ "kiểu" cũng được dùng để dịch tiếng " style" và tiếng " modèle". Vì motif là hình nào chính yếu tô điểm một đồ vật như " chùm nho, con cóc" ở các xà nhà, nên xin tạm dịch là mỹ thức cho tới khi nào ai tìm ra tiếng đúng hơn. Bởi Việt ngữ còn quá nghèo nàn về danh từ mỹ thuật, nên trong bài này, cần ghi thêm nhiều tiếng chuyên môn bằng ngoại ngữ mà chưa ai lo dịch. Mỗi nhà mỹ nghệ dùng khí cụ riêng, đưa tay theo những tác động riêng mà tổng số hợp thành một kỹ thuật cổ truyền hoặc mới được phổ biến.
 Như một bó hoa huệ, có thể thêu bằng kim với nét khâu mũi chỉ ( points) hay đắp nổi bằng vữa (reliefs) với chiếc bay của thợ hồ, hoặc trên gỗ với lưỡi đục của thợ mộc, hoặc dập cho lồi ra (repoussé) trên lá vàng lá bạc bằng búa nhỏ đầu vuông.
Song dù nhằm mỹ thức nào, và nhờ vào kỹ thuật nào, nếu muốn cho đẹp, các nhà mỹ nghệ thường áp dụng một vài phương thức mà những nhà nghiên cứu đã coi là những qui luật. Nhưng cũng như ở nghệ thuật, thiết nghĩ cần quan niệm một cách rộng rãi vì sự đẹp không thể đóng chặt vào những khuôn khổ cứng ngắc; những phương thức ở đây không thể có tính cách bó buộc, chẳng qua là một số kinh nghiệm rút ra từ nhiều nhận xét chung.

Hy lạp

Byzantine

Pompeienne.

Arabe

Celtique

Indienne

Moyenageuse.

 Chứng cớ là mỗi tác giả đòi hỏi một cách khác, theo giáo sư Duvillé :
                                                  Mỹ thức phải đủ những điều kiện :
                                                -  Gây cảm giác mạnh ( intensité)
                                                -  Biến cải cho vui mắt ( variété )
                                                -  Hòa hợp chi tiết và tổng thể ( concordance)
Và muốn được như vậy, ông bắt chú trọng đến qui cũ, tiết điệu và mạch lạc liên tiếp (ordre, rythme,succession).
Nhưng đối với Charles Blanc lại có những 5 luật chính và 5 luật phụ gọi bằng những danh từ khác:
   1- Nhắc lại nhiều lần đối với một mỹ thức   ( répétition)
       Phụ :  Phải theo cùng một thể một điệu    ( consonnance)
   2- Cách mỹ thức nọ đến mỹ thức kia          ( alternance )
       Phụ :  Phải cho đối chọi với nhau             ( contraste )
   3- Các hình cần được cân đối                     ( symétrie)
       Phụ :  Cho tỏa chiều đều từ trung tâm      ( rayonnement)
   4- Tiến dần từ nhỏ đến lớn, từ ít đến nhiều   ( progression)
       Phụ :  Từ thấp lên cao                             ( gradation)
   5- Trình bày hỗn tạp                                   ( confusion)
       Phụ :  Có thể theo mỹ thức phức tạp       ( complication)
Cứ một khoản thứ 5 của ông cũng đủ phá hết 4 khoản trên, vì nếu đã có thể hỗn tạp, thì mặc ý tung hoành, có quyền thoát ly khỏi những đạo luật mà quá nhiều nhà mỹ nghệ hiện nay không theo nữa. Tuy họ cũng thấy cần qui cũ đó phải tùy cá nhân liệu tìm lấy.
Dù sao những luật của các ông cũng có giá trị tương đối, hướng dẫn sự quan sát của chúng ta ở những đồ đạc đã chế theo kiểu, và giúp chúng ta dò lại những bước đường của nhà mỹ nghệ qua các thời đại, cũng không nên coi các phương thức lổi thời, vì những kiểu cũ có khi sống lại. Duy những phương thức đựơc nêu ra , có thể thu gọn cho dễ xét hơn, và bổ túc bằng những nhận định khác :
a- Phân minh ( netteté):- Trong thiên nhiên ở bờ sông, xó rừng, bãi biển, cây cối xù xì, lòa xòa hổn độn, vướng cả mắt lẩn chân tay. Trái lại, giữa nhân quần, con người cần tổ chức đời sống, hoàn cảnh do trí não tạo ra, đòi hỏi trật tự cho gọn và tiện. Mỗi đồ vật phải có hình khối với góc cạnh nhẵn, phẵng, rõ rệt ( các nhận xét ở đoạn này, cũng như trong bài này, đều căn cứ vào đa số các trường hợp thường gặp; không kể đến các kiểu đặc biệt phá cách cho tân kỳ, vì tương đối cũng ít.)Nếu đủ các điều kiện đó, thì vẻ đẹp có thể hiện ra hoặc nổi bật. Bởi vậy, người ta hay theo lề lối sau:
- Vạch kẻ, dùng nét kẻ để chia phần trên phần dưới mà giới hạn, chứa đựng các hình vào mỗi khoảng đều đặn như ở tường, cột, mái, đồ gỗ ( rainures, cannelures, moulures). Ở thời tiền sử, cổ nhân vẽ lên vách đá hoặc làm đồ kim khí, chưa biết phương thức này.
                  - Viền ở vải, da, quần áo.
                  - Nẹp ở vật cứng như gỗ, đồ đan.
- Vành, khung quanh ván, cánh cửa, gương soi, đầu mái nhà, thành khoảng tam giác hoặc mí nhà ( fronton, tympan), nhất là tranh ảnh hay tấm tranh, hể lồng vào khung, tất nổi hơn trước gấp bội.( Theo nhà mỹ học René Hughes, thì sự lồng khung do người Ai cập tìm ra trước tiên và phương thức trọng yếu này được lưu truyền mãi. Không gian được xắn ra từng khoảng, sự giới hạn đưa tới sự phân phối các hình thể và sự bố cục trên các công trình kiến trúc và mỹ nghệ.
b- Cân đối (symétrie):- Đẹp ở mỹ nghệ đi liền với tiện ích, dễ coi nhưng còn phải chắc chắn và lâu bền. Các chân bàn phải đều nhau mới đứng vững. Hai cánh cửa không thể bên to bên nhỏ thì khóa hay đóng mới chặt.
Nhà mỹ nghệ khó tránh sự cân đối; và cân đối thực ra cũng gọn mắt, hợp với nhu cầu qui cũ. Cho nên hai tay ghế đã bằng nhau, thì cũng mang những sắc hình tô điểm giống nhau.
Sự cân đối ở hình sắc đồ đạc, cần phải phân biệt rõ ràng với sự cân đối trong cách bày biện. Rất có thể nhà trang trí chỉ treo một bức tranh lệch về một góc tường, chớ không đặt vào chính giữa hoặc treo hai bức bằng nhau ở cùng hàng, vẫn để doi, nếu thích ứng với vị trí của các vật khác trong hoàn cảnh. Nhưng mọi góc cạnh của khung tranh tất nhiên không thể méo, vẫn phải song hành theo chử nhật.
  Ở một thứ đồ, nếu điều kiện vững chải, đã đủ rồi, thì sự cân đối có thể thay thế bằng sự xứng hợp. Nếu những bình hai quai dính vào hai bên cổ ( amphore) thì nhiều ấm trà thường chỉ có một quai mà trông vẫn ngay ngắn, không thấy lẻ loi, vì đường cong của quai xứng hợp với nét cong của vòi rót nước.
  Ngoài ra, nếu sự cân đối đã ở hình thể của đồ, nhất là đồ nhỏ như chiếc hộp, chiếc bình, thì không cần thấy các mỹ thức tô điểm vì sẽ quá nhiều và làm mỏi mắt.
Dẫu sao, ở mỹ nghệ thời nay, cũng như ở hội họa điêu khắc, vẽ đẹp có thể đi đôi với sự lệch lạc  cố ý, thoát lệ thường để tìm thứ tân kỳ; có những lọ pha lê uốn mình vặn vẹo, những đĩa đựng tàn thuốc lá không theo hình chi rõ rệt, gần giống mảnh lá, gần giống vỏ sò, tuy lồi ra lỏm vào, nhưng vẫn nhẳn nhụi bóng bẩy với đường nét mềm mại.
c- Nhịp điệu (rythme):- Tại sao những thềm nhiều bậc, những cầu nhiều khoang, những hàng rào sắt nhiều then, những dây đàn lục huyền, lại hấp dẫn con mắt hơn là cửa thấp bằng sân, cầu thẳng thuột tường gạch chạy dài một dây căng thẳng ở đàn bầu? Nghỉ cho cùng chỉ thấy một lý do: những then, khoang, bậc, dây đều hàng, song song, gây một cảm tưởng nhịp nhàng sánh điệu. Cũng bởi lẻ đó, mà nhiều đền đài từ xưa, người ta hay xây từng dãy cột dọc theo hành lang ( colonnades, péristyles) và giả thử bỏ hết, thì miếu Panthénon ở Nhã điển, nhà thờ Madeleine ở Ba lê, điển Alhambra ở Grenade sẽ chẳng còn đẹp nữa.
  Có thể nói các đường nét cột này nhắc lại đường nét cột kia, và lối nhắc đi nhắc lại nhiều lần ( répétition) ở kiến trúc cũng như ở mỹ nghệ, mặc nhiên thành một lệ mà bao đời lẳng lặng theo, đem một hình sắc nhân, làm mấy mươi trên tà áo, màn thêu tủ chạm...
  Có khi hai, ba mỹ thức nhỏ liên tiếp cùng hàng, như một vòng tròn rồi đến ô vuông, hay một bông hoa rồi đến một cành lá, và cứ thế mãi; sự xen cách nhau như vậy (alternance) chẳng qua cũng chỉ là lối giao nhịp phức tạp hơn là song song một nét một hình.
  Nhịp điệu còn có thể thực hiện bằng những chi tiết giao động : như những tua ( glands) ở ngù vai hay viền khăn, những nếp gấp ( plis et drapés) ở vạt áo hay tượng người, những dây buông thỏng (pendentifs) những chuổi lung linh như ở đèn trần nhiều ngọn ( lustre) . Tuy nhiên những phương thức tô điểm này ít thông dụng vì các vẻ thướt tha vướng víu không thích hợp nữa với đời sống hiện tại, cần gọn gàng.
d- Thích ứng (convenance)- Ở đồ đạc chỉ thấy đẹp khi có sự hòa hợp và nhất là điều độ, nhờ sự tương giao hoặc tương phản để chế hóa, của các đường nét, của các đường nét, hình thể và ánh sắc. Cũng như ở nghệ thuật, người  ta lợi dụng đặc tính của nét thẳng bên cạnh đường cong, của màu nóng xen lẫn màu nguội, của màu phụ màu chính làm nổi bật lẩn nhau. Đại khái như vậy, còn thì tùy sự khéo léo của người tạo tác cùng những điều kiện khách quan như sự thích ứng ở mỗi ngành mỗi loại.
  Gạch lót nhà không thể mang những hình sắc ánh nào theo lối viển họa: nếu nhìn xuống thấy gần xa, tất bước đi chập choạng dễ trượt ngã ; ở sàn nhà, đệm ghế, thảm chùi chân, không vẽ mặt người vì chẳng lẻ ngồi lên hay có thể chà đạp? Song nếu vậy, bắt các phụ nữ đem thân kiều diễm ra ra đội đèn, làm chân bàn hoặc cột nhà ( cariatides) cũng là sự quá đáng và trái nhân phẫm.

Nhịp điệu ở thánh đường La Madeleine- Paris.

  Nhiều thứ tủ Châu âu thế kỷ XV, XVI, rất nặng nề cục mịch, tuy chạm trổ vì bắt chước kiến trúc; tuy cũng cần xà ngang ván dọc, có nóc, có cửa, ván ngăn, nhưng không thể căn cứ vào vài chi tiết tương tự mà đem vào đồ vật nhỏ, những qui mô của ngôi nhà đồ sộ. Hình thể thích ứng với bề thế lớn, không thích ứng với kích thước nhỏ.
  Còn  rất nhiều tỉ dụ, nhiều trường hợp không thích ứng : bông đeo tai, mà lại chiếc xe kéo, dù nhỏ xíu; sách dạy toán pháp khô khan, mà đóng bìa gáy vàng nạm hoa, đĩa dựng tàn thuốc lá, sao lại chứa một cô khỏa thân giơ đùi ra vẫy thiên hạ?
e- Hoàn hảo( le fini)- Đẹp ở kiệt tác nghệ thuật phải man mác bất tuyệt, càng nhìn càng thấy nhiều thú vị * Người Âu Mỹ thường phàn nàn rằng, các nhà mỹ nghệ ở các nước chậm tiến đã để mất truyền thống hoàn hảo: ít khi chọn được một chiếc bình mà men không có vết, môt cái tủ mà mặt sau được bào cho thật nhẳn. Dù sao không, nếu không đáp lại nhu cầu hoàn hảo, thỉ nhiểu ngảnh mỹ nghệ sẽ chết và chết hẳn.
  Nhưng đẹp ở mỹ nghệ phải cho thấy rõ ràng, tất cả, chẳng đợi khám phá thì mới bán được. Một chiếc chén, không thể hơi méo, mặt bàn không thể hơi gồ ghề.. Tóm lại, đã tròn thì phải thật tròn, vuông phải thật vuông, trong sáng phải thật trong sáng.. nhược bằng còn để tiếc đôi chút thì khó lòng được tha thứ ; và hoàn hảo là điều yêu sách gắt gao, nhất là khi thủ công phải đương đầu với kỹ nghệ, thì sự sơ suất của bàn tay, càng bị lộ rõ bên cạnh sự tinh vi của cơ khí.
  Đồ đạc ứng dụng vào những nhu cầu thiết yếu của con người, nên dù ở các đời các xứ khác nhau, cũng mang nhiều tính cách tương tự và dể hiểu, chớ không như văn chương nghệ thuật là những giá trị tinh thần chỉ được thông cảm sau nhiều thời gian tiếp xúc. Bát đĩa, vải lụa phương Đông đưa sang phương Tây hay ngược lại, thường đến trước pho sách hay bức tranh; và bởi được trao đổi nhiều hơn giữa các dân tộc, nên sự hổ tương ảnh hưởng cũng mạnh và mau hơn các tác phẩm của Hy Lạp Trung Hoa? Điều đó không đáng chú ý bằng sự đồng nhất, mà ta càng thấy rõ ở đời sống hiện tại mỗi ngày mỗi quốc tế hóa nhiều hơn.

Của Pháp- TK XVII

Của Trung Hoa  TK XIV

  Ở Âu châu, Cận đông hay Nam mỹ các yếu tố và phương thức tô điểm đều phát nguyên từ sự quan sát tạo vật. Hình thể ánh sắc, tiết điệu..đều có sẳn trong thiên nhiên, con người chỉ tìm cách phỏng theo, châm chước để thâu được vào gổ, vải, đồng, sứ chứ không thể tự hào như một số nghệ sĩ rằng chính mình tự ý tạo ra tất cả. Bất cứ ai chịu ngắm kỷ các vật trong trời đất, dù là nhà khoa học, và nhất là nhà khoa học, đều phải chịu rằng chẳng thể nào hòa hợp và tô điểm, nếu không học hỏi hóa công.
  Phân minh, cân đối, hoàn hảo, chưa chắc đã đẹp. Nhưng ở những đố đạc thấy đẹp, thế nào cũng tìm ra một hay nhiều tính cách kể trên.Những tính cách đó không phải là xảo thuật giả tạo, nhưng vẫn có sẳn ở cánh hoa, vẩy cá, 29 hình lá cây, đường gân trên mai con mực biển, 16 thứ tinh thể của hạt tuyết (cristaux de neige), các vòng hành tinh, các hạt nguyên tử.
  Duy chỉ người thái cổ hoặc quá chất phác mới lấy hẳn những đồ vật thiên nhiên mà đeo vào thân thể hoặc đem vào nơi trú ngụ, hay cố bắt chước cho hệt. Còn khi trí tuệ đã mở mang, tất cả đều biến cải mà tìm đẹp cho đồ chế tạo, theo kỷ hà học như ở Châu âu, hoặc ý thức hình học như ở các dân tộc không tinh thông toán pháp. Sóng gợn mặt hồ, được đổi thành đường thủy ba song song hay cuộn tròn trên gấm vóc, không biết từ mấy ngàn năm nay * Theo René Hughes, thì do người đảo Crète, người Vikings tìm ra từ 1000 năm trước Dương lịch.
  Sự chuyển hóa thiên nhiên, nếu vậy, chắc phát hiện trước hết ở kiến trúc là nghệ thuật cần nhiểu hình học nhất? Cũng có thể nhà cửa là thứ đồ lớn để chứa đồ khác, thì phải có trước? Dẫu sao rất nhiều mỹ thức ở mái, tường, cửa, ở các đình đài Hy lạp, lại được áp dụng cho khí cụ vật dụng thời sau : cành lá tước vàng ( feuille d'acanthe) ở đầu cột kiểu corinthien, bông, trái, và mặt người ( grotesques, arabesques) cũng chạm hay vẽ vào nhiều bàn ghế, huy hiệu. Ở Á đông, rồng phượng nằm trên góc cung điện, cũng múa trên xiêm áo.
  Ảnh hưởng của kiến trúc càng ngày càng mạnh hơn. Từ vài chục năm nay, đã nảy ra phong trào xây dựng theo công dụng thiết thực ( architecture fonctionnelle) rời khỏi các mỹ thức rườm rà. Quan niệm đó tràn lan qua công nghệ, mỹ nghệ và mỹ học kỹ nghệ. Kiến trúc sư trút bỏ ở ngôi nhà các chi tiết * Ở các ngôi nhà xây từ 30 năm trờ lại đây, không còn thấy những phần tô điểm cổ truyền , mà ngay những phần xưa kia được coi là hữu ích, nhưng không tối cần, cũng bị bỏ đi cho khỏi tốn công và bận mắt : tỉ như các đầu cột chạm trổ hay nhiều đường nét ( chapiteaux) các đường mép chãy dọc mái nhà ( corniche) các trụ lan can hình con triện ( balustre) các ván lót tường ( lambris) thì nhà mỹ nghệ cũng tứ chối những hoa lá bay bướm ở đồ mộc, đồ sành, đồ kim khí..Thành ra tô điểm và trang trí vẫn cùng tiến triễn cùng nghệ thuật tu tạo, và đồ đạc lệ thuộc nhà cửa cũng phải theo đà giản dị hóa chung, để tìm đẹp trong thanh nhã.

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

Flash cho mầm non : Sự biến hình của loài bướm.



                  Ong, kiến, bọ rùa, cũng như nhiều loại côn trùng khác khi ra khỏi vỏ trứng
                  thì thay đổi hình dạng. Người ta gọi sự thay đổi hình dạng này là sự biến hình.
                  Riêng loài bướm đặc biệt hơn, sự biến hình xảy ra nhiều lần.



Ban đầu chui ra khỏi trứng là một con sâu nhỏ.



Sâu ăn rất nhiều và lớn cũng rất nhanh.



Vì lớn nhanh, sâu phải thay lớp vỏ bên ngoài.



Sâu lớn bắt đầu dệt cho mình một cái kén và chui vào trong đó.
Nó đã biến thành con nhộng.



Trong kén, nhộng lại biến hình...



Đến một ngày nào đó, nó trở thành một con bướm rực rở sắc màu.